Tác động của các hiệp định thương mại đến xuất khẩu gạo của Việt Nam (Nguyễn Thị Thanh Huyền)

 


Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận 

 

Thứ nhất, luận án nghiên cứu các hiệp định thương mại (HĐTM) Việt Nam đàm phán và ký kết nhưng không đánh giá khía cạnh tác động đến lĩnh vực kinh tế, thương mại hay phúc lợi nói chung hay nhóm hàng nông sản như nhiều nghiên cứu. Luận án chỉ đề cập và sàng lọc những nội dung cam kết có liên quan đến mặt hàng gạo. Đó là những căn cứ rõ ràng về quy tắc xuất xứ, về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường kinh doanh... đòi hỏi xuất khẩu (XK) gạo cần tuân thủ. Ngoài ra, luận án bổ sung những quy định riêng đối với gạo XK của Việt Nam phải tuân theo do từng thành viên nhập khẩu (NK) gạo đặt ra;

 

Thứ hai, luận án kết hợp phương pháp định tính (Khung phân tích) và phương pháp thực nghiệm (mô hình lực hấp dẫn cấu trúc), từ đó cho thấy: bên cạnh tác động trực tiếp đến XK gạo Việt Nam thông qua những nội dung đàm phán, HĐTM còn tác động gián tiếp thông qua các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tác động của HĐTM, đó là: (1) khoảng cách kinh tế (GDP, chi tiêu cuối cùng); (2) khoảng cách địa lý; (3) lợi thế so sánh, tính bổ sung, tương đồng/khác biệt trong sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất gạo nói riêng; (4) chính sách (CS) XK (CS tỷ giá, CS thuế, phi thuế quan...); (5) các hàng rào kỹ thuật của nước nhập khẩu đặt ra đối với gạo; (6) cơ cấu gạo XK so với chủng loại gạo tiêu dùng của nước NK; (7) giá gạo XK;..., và luận án lượng hóa tác động của một số HĐTM đến XK gạo và một số yếu tố tác động trung gian, đó là các yếu tố (1), (2) và tỷ giá hối đoái.

 

Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu của luận án 

 

Thứ nhất, kết quả nghiên cứu (tiếp cận Khung phân tích và tiếp cận Mô hình lực hấp dẫn cấu trúc) của luận án cho thấy tác động tổng thể của việc tham gia HĐTM có thúc đẩy XK gạo Việt Nam tuy chỉ ở mức thấp. Xét tác động riêng lẻ lại cho thấy không phải tất cả HĐTM có hiệu lực mà Việt Nam tham gia đều có tác động tích cực đến XK gạo. Những HĐTM (ví dụ như AFTA, ACFTA, AKFTA, AANZFTA) giữa Việt Nam và những nước thành viên có những đặc điểm về kinh tế - xã hội (như khoảng cách kinh tế, lợi thế so sánh và tính bổ sung trong sản xuất nông nghiệp, thị hiếu tiêu dùng gạo...) phù hợp với hoạt động XK gạo của Việt Nam mới có tác động tích cực đến xuất khẩu gạo của Việt Nam.

 

Thứ hai, luận án đưa ra xu thế tác động của các HĐTM đến XK gạo Việt Nam, biến động cung – cầu gạo thế giới, những thay đổi trong chính sách XK và biến đổi điều kiện tự nhiên, là những vấn đề mang tính thời sự đối với ngành gạo hiện nay, đòi hỏi toàn ngành phải thích ứng để gạo Việt Nam tiếp cận dễ dàng hơn với bất kỳ thị trường nào trên thế giới và XK gạo cần nâng cao về chất chứ không chỉ tăng về lượng;

 

Thứ ba, dựa trên kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm xuất khẩu gạo dưới tác động của các HĐTM một số nước và xu hướng XK, NK gạo thế giới các nước, luận án đưa ra một số giải pháp để gạo XK của Việt Nam thích ứng với các nội dung của HĐTM gồm: (1)Thích ứng với nội dung Quy tắc xuất xứ, rào cản kỹ thuật và kiểm dịch động thực vật: tiêu chuẩn hóa về kỹ thuật trong các khâu sản xuất đến XK gạo trong đó cần có sự gắn kết giữa các khâu và giữa các chủ thể liên quan đến XK gạo; (2) Thích ứng với nội dung cạnh tranh và kinh doanh, cam kết thuế quan, chống bán phá giá, giải quyết tranh chấp: chủ động điều chỉnh các chính sách XK gạo như CS sản phẩm, CS thuế, xúc tiến thương mại, CS tỷ giá phù hợp với thông lệ quốc tế chung và mỗi thị trường NK riêng biệt cũng như phù hợp đặc thù ngành hàng; (3) Thích ứng với nội dung phát triển bền vững: từng bước tái cơ cấu ngành gạo để sản xuất, XK gạo phù hợp với môi trường, đảm bảo ý nghĩa kinh tế - xã hội - chính trị - văn hóa của gạo, hài hòa với xu thế phát triển của hội nhập kinh tế quốc tế, tăng tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của các HĐTM và phù hợp hơn với đặc điểm các thị trường nhập khẩu gạo khác trên thế giới.







LINK DOWNLOAD

 


Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận 

 

Thứ nhất, luận án nghiên cứu các hiệp định thương mại (HĐTM) Việt Nam đàm phán và ký kết nhưng không đánh giá khía cạnh tác động đến lĩnh vực kinh tế, thương mại hay phúc lợi nói chung hay nhóm hàng nông sản như nhiều nghiên cứu. Luận án chỉ đề cập và sàng lọc những nội dung cam kết có liên quan đến mặt hàng gạo. Đó là những căn cứ rõ ràng về quy tắc xuất xứ, về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường kinh doanh... đòi hỏi xuất khẩu (XK) gạo cần tuân thủ. Ngoài ra, luận án bổ sung những quy định riêng đối với gạo XK của Việt Nam phải tuân theo do từng thành viên nhập khẩu (NK) gạo đặt ra;

 

Thứ hai, luận án kết hợp phương pháp định tính (Khung phân tích) và phương pháp thực nghiệm (mô hình lực hấp dẫn cấu trúc), từ đó cho thấy: bên cạnh tác động trực tiếp đến XK gạo Việt Nam thông qua những nội dung đàm phán, HĐTM còn tác động gián tiếp thông qua các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tác động của HĐTM, đó là: (1) khoảng cách kinh tế (GDP, chi tiêu cuối cùng); (2) khoảng cách địa lý; (3) lợi thế so sánh, tính bổ sung, tương đồng/khác biệt trong sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất gạo nói riêng; (4) chính sách (CS) XK (CS tỷ giá, CS thuế, phi thuế quan...); (5) các hàng rào kỹ thuật của nước nhập khẩu đặt ra đối với gạo; (6) cơ cấu gạo XK so với chủng loại gạo tiêu dùng của nước NK; (7) giá gạo XK;..., và luận án lượng hóa tác động của một số HĐTM đến XK gạo và một số yếu tố tác động trung gian, đó là các yếu tố (1), (2) và tỷ giá hối đoái.

 

Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu của luận án 

 

Thứ nhất, kết quả nghiên cứu (tiếp cận Khung phân tích và tiếp cận Mô hình lực hấp dẫn cấu trúc) của luận án cho thấy tác động tổng thể của việc tham gia HĐTM có thúc đẩy XK gạo Việt Nam tuy chỉ ở mức thấp. Xét tác động riêng lẻ lại cho thấy không phải tất cả HĐTM có hiệu lực mà Việt Nam tham gia đều có tác động tích cực đến XK gạo. Những HĐTM (ví dụ như AFTA, ACFTA, AKFTA, AANZFTA) giữa Việt Nam và những nước thành viên có những đặc điểm về kinh tế - xã hội (như khoảng cách kinh tế, lợi thế so sánh và tính bổ sung trong sản xuất nông nghiệp, thị hiếu tiêu dùng gạo...) phù hợp với hoạt động XK gạo của Việt Nam mới có tác động tích cực đến xuất khẩu gạo của Việt Nam.

 

Thứ hai, luận án đưa ra xu thế tác động của các HĐTM đến XK gạo Việt Nam, biến động cung – cầu gạo thế giới, những thay đổi trong chính sách XK và biến đổi điều kiện tự nhiên, là những vấn đề mang tính thời sự đối với ngành gạo hiện nay, đòi hỏi toàn ngành phải thích ứng để gạo Việt Nam tiếp cận dễ dàng hơn với bất kỳ thị trường nào trên thế giới và XK gạo cần nâng cao về chất chứ không chỉ tăng về lượng;

 

Thứ ba, dựa trên kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm xuất khẩu gạo dưới tác động của các HĐTM một số nước và xu hướng XK, NK gạo thế giới các nước, luận án đưa ra một số giải pháp để gạo XK của Việt Nam thích ứng với các nội dung của HĐTM gồm: (1)Thích ứng với nội dung Quy tắc xuất xứ, rào cản kỹ thuật và kiểm dịch động thực vật: tiêu chuẩn hóa về kỹ thuật trong các khâu sản xuất đến XK gạo trong đó cần có sự gắn kết giữa các khâu và giữa các chủ thể liên quan đến XK gạo; (2) Thích ứng với nội dung cạnh tranh và kinh doanh, cam kết thuế quan, chống bán phá giá, giải quyết tranh chấp: chủ động điều chỉnh các chính sách XK gạo như CS sản phẩm, CS thuế, xúc tiến thương mại, CS tỷ giá phù hợp với thông lệ quốc tế chung và mỗi thị trường NK riêng biệt cũng như phù hợp đặc thù ngành hàng; (3) Thích ứng với nội dung phát triển bền vững: từng bước tái cơ cấu ngành gạo để sản xuất, XK gạo phù hợp với môi trường, đảm bảo ý nghĩa kinh tế - xã hội - chính trị - văn hóa của gạo, hài hòa với xu thế phát triển của hội nhập kinh tế quốc tế, tăng tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của các HĐTM và phù hợp hơn với đặc điểm các thị trường nhập khẩu gạo khác trên thế giới.







LINK DOWNLOAD

M_tả
M_tả

Chuyên mục:

Không có nhận xét nào: