Chẩn đoán siêu âm gan và đường mật



CHẨN ĐOÁN SIÊU ÂM GAN VÀ ĐƯỜNG MẬT

1. CÁC PHƯƠNG PHÁP SIÊU ÂM

1.1. Siêu âm qua đường bụng

Kỹ thuật thăm khám siêu âm.

Chuẩn bị: bệnh nhân phải nhịn đói. Nếu bệnh nhân nhiều hơi cần phải chuẩn bệnh nhân kỹ hơn để tránh hơi (chế độ ăn, thuốc).Tuy nhiên, trong những trường hợp cấp cứu không nhất thiết bệnh nhân phải nhịn đói. Cần thăm khám lâm sàng trước khi khám siêu âm.

Máy siêu âm: Nên có nhiều đầu dò với tần số khác nhau, nhưng nói chung thường dùng đầu dò tần số 3,5MHz cho người lớn và tần số 5MHz cho trẻ em, và nên dùng đầu dò cong lồi. Nếu cần phát hiện những tổn thương nông trên bề mặt gan đôi khi cần sử dụng đầu dò với tần số 6.5-7,5MHz. 

Kỹ thuật thăm khám (phần này sẽ được trình bày chi tiết ở phần định khu giải phẫu gan). Bệnh nhân nằm ngửa, hít vào sâu và nín thở để hạ thấp gan xuống và tránh hơi trong đại tràng. Khi cần bộc lộ cuống gan hoặc thuỳ sau gan phải nên cho bệnh nhân nằm nghiêng trái. Thăm khám được thực hiện bằng các lát cắt dọc, cắt ngang một cách liên tục. Các lớp cắt chéo theo trục của rốn gan và theo vị trí của túi mật được thực hiện khi muốn bộc lộ các thành phần này. Các lát cắt qua các khoảng liên sườn, cắt qua đường nách rất có ý nghĩa để thăm khám những vùng cao của gan (hạ phân thuỳ VII, VIII) và phân thuỳ sau (gồm hạ phân thuỳ VI,VII) đồng thời để tránh hơi của ống tiêu hoá. Khi muốn định khu các vùng của gan cần thiết phải thực hiện các lát cắt cơ bản. Một điều không thể thiếu trong siêu âm gan-mật đó là cần phải kết hợp thăm khám siêu âm toàn bộ ổ bụng.

Ngoài  kỹ thuật siêu âm qua đường bụng có thể siêu âm qua nội soi, siêu âm trong mổ, siêu âm mổ nội soi ổ bụng.

2.Định khu giải phẫu gan trên siêu âm

Định khu giải phẫu của gan trên siêu âm dựa vào các mốc mạch máu và vào vị trí các lát cát cơ bản sau :

Cắt dọc qua động mạch chủ: lát cắt này đi từ trước ra sau qua động mạch chủ bụng cho phép thấy phân thuỳ bên trái bao gồm hạ phân thuỳ II, III. Hai hạ phân thuỳ này cách nhau bởi một nhánh tĩnh mạch cửa và hạ phân thuỳ II nằm trên phía cơ hoành, hạ phân thuỳ III nằm dưới phía mỏm gan. Lát cắt dọc này cho phép đo gan trái (hình ) trong đó chiều dọc gan trái không quá 8cm và chiều dày không quá 5cm, góc dưới gan trái không quá 45o[theo F. Weill]. Phía sau dưới gan trái là đuôi tuỵ, động mạch thân tạng và động mạch mạc treo tràng trên.

Cắt dọc qua tĩnh mạch chủ dưới: đi từ trước ra sau qua tĩnh mạch chủ dưới cho thấy phân thuỳ IV và phân thuỳ I. Phân thuỳ I nằm phía trước tĩnh mạch chủ dưới và sau nhánh trái tĩnh mạch cửa trái. Trên lát cắt này có thể xác định tỷ lệ giữa phân thuỳ I và gan trái, tỷ lệ này đối với người bình thường là A/B <0,35[Seitz]. Trên lát cắt này nếu nghiêng nhẹ đầu dò sang trái sẽ thấy rãnh Arantius phân tách phân thuỳ I và phân thuỳ IV.

Cắt dọc qua đường giữa đòn phải: qua gan phải, túi mật và thận phải, cho thấy toàn bộ gan phải với phân thuỳ trước và phân thuỳ sau cách nhau bởi tĩnh mạch gan phải. Hạ phân thuỳ V gần túi mật, hạ phân thuỳ VI gần thận phải, hạ phân thuỳ VII và VIII sát vòm hoành. Ngoài ra lát cắt này thường dùng để đo kích thước gan phải với chiều dọc (hay chiều cao) = 10,5  1,5cm, chiều dày (chiều sâu) = 8,1  1,9cm  và góc dưới gan phải   750 [F. Weill và  Niederau]. Lát cắt này cũng có thể thấy khoang Morrisson khi có dịch trong khoang phúc mạc.






CHẨN ĐOÁN SIÊU ÂM GAN VÀ ĐƯỜNG MẬT

1. CÁC PHƯƠNG PHÁP SIÊU ÂM

1.1. Siêu âm qua đường bụng

Kỹ thuật thăm khám siêu âm.

Chuẩn bị: bệnh nhân phải nhịn đói. Nếu bệnh nhân nhiều hơi cần phải chuẩn bệnh nhân kỹ hơn để tránh hơi (chế độ ăn, thuốc).Tuy nhiên, trong những trường hợp cấp cứu không nhất thiết bệnh nhân phải nhịn đói. Cần thăm khám lâm sàng trước khi khám siêu âm.

Máy siêu âm: Nên có nhiều đầu dò với tần số khác nhau, nhưng nói chung thường dùng đầu dò tần số 3,5MHz cho người lớn và tần số 5MHz cho trẻ em, và nên dùng đầu dò cong lồi. Nếu cần phát hiện những tổn thương nông trên bề mặt gan đôi khi cần sử dụng đầu dò với tần số 6.5-7,5MHz. 

Kỹ thuật thăm khám (phần này sẽ được trình bày chi tiết ở phần định khu giải phẫu gan). Bệnh nhân nằm ngửa, hít vào sâu và nín thở để hạ thấp gan xuống và tránh hơi trong đại tràng. Khi cần bộc lộ cuống gan hoặc thuỳ sau gan phải nên cho bệnh nhân nằm nghiêng trái. Thăm khám được thực hiện bằng các lát cắt dọc, cắt ngang một cách liên tục. Các lớp cắt chéo theo trục của rốn gan và theo vị trí của túi mật được thực hiện khi muốn bộc lộ các thành phần này. Các lát cắt qua các khoảng liên sườn, cắt qua đường nách rất có ý nghĩa để thăm khám những vùng cao của gan (hạ phân thuỳ VII, VIII) và phân thuỳ sau (gồm hạ phân thuỳ VI,VII) đồng thời để tránh hơi của ống tiêu hoá. Khi muốn định khu các vùng của gan cần thiết phải thực hiện các lát cắt cơ bản. Một điều không thể thiếu trong siêu âm gan-mật đó là cần phải kết hợp thăm khám siêu âm toàn bộ ổ bụng.

Ngoài  kỹ thuật siêu âm qua đường bụng có thể siêu âm qua nội soi, siêu âm trong mổ, siêu âm mổ nội soi ổ bụng.

2.Định khu giải phẫu gan trên siêu âm

Định khu giải phẫu của gan trên siêu âm dựa vào các mốc mạch máu và vào vị trí các lát cát cơ bản sau :

Cắt dọc qua động mạch chủ: lát cắt này đi từ trước ra sau qua động mạch chủ bụng cho phép thấy phân thuỳ bên trái bao gồm hạ phân thuỳ II, III. Hai hạ phân thuỳ này cách nhau bởi một nhánh tĩnh mạch cửa và hạ phân thuỳ II nằm trên phía cơ hoành, hạ phân thuỳ III nằm dưới phía mỏm gan. Lát cắt dọc này cho phép đo gan trái (hình ) trong đó chiều dọc gan trái không quá 8cm và chiều dày không quá 5cm, góc dưới gan trái không quá 45o[theo F. Weill]. Phía sau dưới gan trái là đuôi tuỵ, động mạch thân tạng và động mạch mạc treo tràng trên.

Cắt dọc qua tĩnh mạch chủ dưới: đi từ trước ra sau qua tĩnh mạch chủ dưới cho thấy phân thuỳ IV và phân thuỳ I. Phân thuỳ I nằm phía trước tĩnh mạch chủ dưới và sau nhánh trái tĩnh mạch cửa trái. Trên lát cắt này có thể xác định tỷ lệ giữa phân thuỳ I và gan trái, tỷ lệ này đối với người bình thường là A/B <0,35[Seitz]. Trên lát cắt này nếu nghiêng nhẹ đầu dò sang trái sẽ thấy rãnh Arantius phân tách phân thuỳ I và phân thuỳ IV.

Cắt dọc qua đường giữa đòn phải: qua gan phải, túi mật và thận phải, cho thấy toàn bộ gan phải với phân thuỳ trước và phân thuỳ sau cách nhau bởi tĩnh mạch gan phải. Hạ phân thuỳ V gần túi mật, hạ phân thuỳ VI gần thận phải, hạ phân thuỳ VII và VIII sát vòm hoành. Ngoài ra lát cắt này thường dùng để đo kích thước gan phải với chiều dọc (hay chiều cao) = 10,5  1,5cm, chiều dày (chiều sâu) = 8,1  1,9cm  và góc dưới gan phải   750 [F. Weill và  Niederau]. Lát cắt này cũng có thể thấy khoang Morrisson khi có dịch trong khoang phúc mạc.




M_tả
M_tả

Không có nhận xét nào: