GIÁO TRÌNH - Công nghệ dầu khí
PHẦN II: CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN KHÍ
CHƯƠNG 1: CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. Các khái niệm về khí thiên nhiên
1.1.1. Nguồn gốc
1.1.1.1 Nguồn gốc vô cơ
Theo giả thuyết này trong lòng Trái đất có chứa các cacbua kim loại như Al 4C3,
CaC2. Các chất này bị phân hủy bởi nước để tạo ra CH4và C2H2:
Al4C3+ 12H2O 4Al(OH)3+ 3CH4
CaC2+ 2H2O Ca(OH)2+ C2H2
Các chất khởi đầu đó (CH4, C2H2) qua quá trình biến đổi dưới tác dụng của nhiệt
độ, áp suất cao trong lòng đất và xúc tác là các khoáng sét, tạo thành các hydrocacbon
có trong dầu khí.
Để chứng minh cho điều đó, năm 1866, Berthelot đã tổng hợp được hydrocacbon
thơm từ axetylen ở nhiệt độ cao trên xúc tác. Năm 1901, Sabatier và Sendereus đã
thực hiện phản ứng hydro hóa axetylen trên xúc tác Niken và sắt ở nhiệt độ trong
khoảng 200 - 300
0
C, đã thu được một loạt các hydrocacbon tương ứng như trong thành
phần của dầu. Cùng với hàng loạt các thí nghiệm như trên, giả thuyết về nguồn gốc vô
cơ của dầu mỏ đã được chấp nhận trong một thời gian khá dài.
Sau này, khi trình độ khoa học và kỷ thuật ngày càng phát triển thì người ta bắt
đầu hoài nghi luận điểm trên vì:
- Đã phân tích được (bằng các phương pháp hiện đại) trong dầu mỏ có chứa các
Porphyrin có nguồn gốc từ động thực vật.
- Trong vỏ quả đất, hàm lượng cacbua kim loại là không đáng kể.
- Các hydrocacbon thường gặp trong các lớp trầm tích, tại đó nhiệt độ ít khi vượt
quá 150 - 200oC (vì áp suất rất cao), nên không đủ nhiệt độ cần thiết cho phản ứng hóa học xảy ra.
Chính vì vậy mà giả thuyết nguồn gốc vô cơ ngày càng phai mờ do có ít căn cứ.
1.1.1.2. Nguồn gốc hữu cơ
...
LINK 3 - TÌM KIẾM SÁCH/TÀI LIỆU ONLINE (GIÁ ƯU ĐÃI NHẤT)
LINK 4 - TÌM KIẾM SÁCH/TÀI LIỆU ONLINE (GIÁ ƯU ĐÃI NHẤT)
PHẦN II: CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN KHÍ
CHƯƠNG 1: CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. Các khái niệm về khí thiên nhiên
1.1.1. Nguồn gốc
1.1.1.1 Nguồn gốc vô cơ
Theo giả thuyết này trong lòng Trái đất có chứa các cacbua kim loại như Al 4C3,
CaC2. Các chất này bị phân hủy bởi nước để tạo ra CH4và C2H2:
Al4C3+ 12H2O 4Al(OH)3+ 3CH4
CaC2+ 2H2O Ca(OH)2+ C2H2
Các chất khởi đầu đó (CH4, C2H2) qua quá trình biến đổi dưới tác dụng của nhiệt
độ, áp suất cao trong lòng đất và xúc tác là các khoáng sét, tạo thành các hydrocacbon
có trong dầu khí.
Để chứng minh cho điều đó, năm 1866, Berthelot đã tổng hợp được hydrocacbon
thơm từ axetylen ở nhiệt độ cao trên xúc tác. Năm 1901, Sabatier và Sendereus đã
thực hiện phản ứng hydro hóa axetylen trên xúc tác Niken và sắt ở nhiệt độ trong
khoảng 200 - 300
0
C, đã thu được một loạt các hydrocacbon tương ứng như trong thành
phần của dầu. Cùng với hàng loạt các thí nghiệm như trên, giả thuyết về nguồn gốc vô
cơ của dầu mỏ đã được chấp nhận trong một thời gian khá dài.
Sau này, khi trình độ khoa học và kỷ thuật ngày càng phát triển thì người ta bắt
đầu hoài nghi luận điểm trên vì:
- Đã phân tích được (bằng các phương pháp hiện đại) trong dầu mỏ có chứa các
Porphyrin có nguồn gốc từ động thực vật.
- Trong vỏ quả đất, hàm lượng cacbua kim loại là không đáng kể.
- Các hydrocacbon thường gặp trong các lớp trầm tích, tại đó nhiệt độ ít khi vượt
quá 150 - 200oC (vì áp suất rất cao), nên không đủ nhiệt độ cần thiết cho phản ứng hóa học xảy ra.
Chính vì vậy mà giả thuyết nguồn gốc vô cơ ngày càng phai mờ do có ít căn cứ.
1.1.1.2. Nguồn gốc hữu cơ
...
LINK 3 - TÌM KIẾM SÁCH/TÀI LIỆU ONLINE (GIÁ ƯU ĐÃI NHẤT)
LINK 4 - TÌM KIẾM SÁCH/TÀI LIỆU ONLINE (GIÁ ƯU ĐÃI NHẤT)

%20(1).png)

.png)
Không có nhận xét nào: