Phân biệt văn bản và ngôn bản - NGỮ PHÁP VĂN BẢN
Thuật ngữ văn bản trong các ngôn ngữ Ấn-Âu đều bắt nguồn từ chữ La-tinh “textus” có nghĩa là “dây bện, vải”. Trong ngôn ngữ học, văn bản đã được định nghĩa theo những cách khác nhau. Trên địa bàn tiếng Việt chẳng hạn, Đinh Trọng Lạc quan niệm: “Văn bản … là một thể thống nhất toàn vẹn được xây dựng theo những quy tắc nhất định”. Hữu Đạt thì cho rằng: “Văn bản là một tập hợp các câu (hay phát ngôn) được kết hợp với nhau theo một phương thức nhất định đảm bảo cho việc truyền đạt thông tin có hiệu quả và chính xác.” Định nghĩa của Trần Ngọc Thêm có phần đơn giản hơn: Văn bản là chỉnh thể thống nhất và trọn vẹn về nội dung và hình thức. Nhưng ông cũng khẳng định thêm: “Văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu–phần từ, trong hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy.”.
Trong tiếng Việt, văn bản được quan niệm là đơn vị cao nhất của ngôn ngữ. Đó là một chỉnh thể gồm một hay nhiều đoạn văn được liên kết chặt chẽ với nhau để thể hiện một nội dung hoàn chỉnh chung.
Hiện nay, chưa có định nghĩa nào về văn bản được tất cả các nhà ngôn ngữ học chấp nhận. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều quan niệm khác nhau vềì văn bản trong các từ điển tiếng Việt, trong các sách giáo khoa phổ thông, trong các giáo trình tiếng Việt thực hành cũng như trong các sách ngôn ngữ học trong, ngoài nước.
Quan niệm về diễn ngôn được giới thiệu ở ta sớm nhất trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Có thể kể đến các công trình: Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm (1985); Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản của Diệp Quang Ban (1998, 2009), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 của Đỗ Hữu Châu (2001), Dụng học Việt ngữ của Nguyễn Thiện Giáp (2000), Phân tích diễn ngôn – một số vấn đề lí luận và phương pháp của Nguyễn Hoà (2003), Từ điển tu từ - phong cách – thi pháp học của Nguyễn Thái Hoà (2005),...
Bên cạnh những công trình biên khảo nói trên, cũng có một số công trình nghiên cứu về diễn ngôn của nước ngoài được dịch sang tiếng Việt, chẳng hạn: Dụng học, một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ của George Yule (Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch, 1997); Dẫn nhập phân tích diễn ngôn của David Nunan (Hồ Mỹ Huyền, Trúc Thanh dịch, 1998); Phân tích diễn ngôn của Gillian Brown, George Yule (Trần Thuần dịch, 2002), Dẫn luận ngữ pháp chức năng của Mak Halliday (Hoàng Văn Vân dịch, 2004)… các công trình này tập trung vào mấy điểm sau: diễn ngôn là gì, đặc điểm và chức năng của diễn ngôn, các vấn đề về ngữ cảnh và ý nghĩa diễn ngôn, cấu trúc thông tin của diễn ngôn, bản chất quy chiếu trong diễn ngôn, các đường hướng phân tích diễn ngôn… Cũng có thể kể đến các bài viết: “Phân tích diễn ngôn phê phán là gì?” (tạp chí Ngôn ngữ, 2 -2005), “Khía cạnh văn hoá của phân tích diễn ngôn” (tạp chí Ngôn ngữ, 12 -2005), “Thực hành phân tích diễn ngôn bài Lá rụng” (tạp chí Ngôn ngữ, 2 - 2009), “Một vài dạng cấu trúc nhân quả khó nhận biết trong diễn ngôn nghệ thuật ngôn từ” (tạp chí Ngôn ngữ số 4 - 2009),…
Chúng tôi thấy có ít nhất năm nhóm quan niệm về diễn ngôn trong ngôn ngữ học. Nhóm thứ nhất sử dụng khái niệm diễn ngôn (discourse) và văn bản (text) đồng nghĩa với nhau, hoặc phân biệt hai khái niệm này bằng cách đính kèm chúng vào một trong hai dạng tồn tại của ngôn ngữ. Nhóm thứ hai cho rằng diễn ngôn thuộc đơn vị của ngữ nghĩa, còn văn bản thuộc đơn vị của ngữ pháp. Nhóm thứ ba quan niệm diễn ngôn chịu sự phán xét của dụng học, còn văn bản trở thành đối tượng của ngôn ngữ học văn bản. Nhóm thứ tư đề nghị nên sử dụng tên gọi diễn ngôn để chỉ quá trình giao tiếp, sự kiện giao tiếp có tính chỉnh thể và có mục đích; còn thuật ngữ văn bản dùng để chỉ sản phẩm của quá trình giao tiếp, sự kiện giao tiếp ấy. Nhóm thứ năm gồm chức năng luậnchủ trương đặt diễn ngôn vào ngữ cảnh văn hoá xã hội, và cấu trúc luận thiên về mô tả cấu trúc độc lập của diễn ngôn.
Quan niệm về diễn ngôn cũng đã được giới thiệu trong khoa học văn học, song còn ở tình trạng tản mạn, hoặc chủ yếu ở dạng thực hành phân tích.
Khái niệm diễn ngôn và văn bản, sự phân biệt giữa diễn ngôn và văn bản đến nay vẫn chưa được thống nhất và còn nhiều tranh cải chính vì thế tôi mạnh dạn đề xuất đề tài : “Phân biệt vă bản và ngôn bản” để có thể hệ thống lại khái niệm về văn bản và ngôn bản (diễn ngôn) và sự khác nhau giữa chúng để giúp người đọc có cái nhìn rõ ràng hơn về ngôn bản và văn bản.
Trong đề tài này tôi tham khảo một số tài liệu sắp xếp chúng một cách có hệ thống và khoa học để chúng ta có cái nhìn logic hơn về văn bản và ngôn bản.
NỘI DUNG:
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tôi đi sâu và nghiên cứu về văn bản và ngôn bản
Phạm vi nghiên cứu đề tài này đó là khái niệm văn bản ngôn bản, những đặc điểm của chúng và đặc biệt là phân biệt ngôn bản và văn bản.
IV. Mục đích nghiên cứu
Hiện nay khái niệm về văn bản và ngôn bản vẫn chưa thực sự được thống nhất và còn rất nhiều tranh cãi. Tôi mạnh dạn làm đề tài này để một phần nào đó hệ thống lại khái niệm về văn bản và ngôn bản đồng thời phân biệt chúng và giúp cho bạn đọc có cái nhìn hệ thống hơn về hai phạm trù ngôn bản và văn bản.
V. Phương pháp nghiên cứu
Ở đề tài này tôi sử dụng phương pháp chính là thống kê, phân loại và so sánh. Ngoài ra tôi còn sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp.
VI. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài gồm có hai chương:
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN BẢN VÀ NGÔN BẢN
1.1. Khái quát chung về văn bản
1.1.1 Khái niệm văn bản và tên gọi
1.1.2 Đặc điểm của văn bản
1.1.3 Cấu tạo của văn bản
1.1.4 Các loại hình văn bản
1.2 Khái quát chung về ngôn bản
1.2.1 Khái niệm ngôn bản và tên gọi
1.2.2 Đặc điểm của ngôn bản
1.2.3 Phân loại ngôn bản
1.2.4 Cấu trúc của ngôn bản
CHƯƠNG II: PHÂN BIỆT NGÔN BẢN VÀ VĂN BẢN
2.1 Những quan niệm về phân biệt ngôn bản và văn bản
2.2 Các tiêu chí phân biệt ngôn bản và văn bản
2.2.1 Về chất liệu
2.2.2 Về hoàn cảnh sử dụng
2.2.3 Hệ thống ngôn ngữ.
2.2.4 Cách phân biệt ngôn bản và văn bản theo quan niệm của A.N. Mrohovski
2.2.5 Mật độ từ vựng
2.2.6 Ẩn dụ ngữ pháp
2.2.7 Hình thức biểu hiện
2.2.8Sản phẩm của văn băn và ngôn bản
III. Mối quan hệ giữa văn bản và ngôn bản
LINK 3 - TÌM KIẾM SÁCH/TÀI LIỆU ONLINE (GIÁ ƯU ĐÃI NHẤT)
LINK 4 - TÌM KIẾM SÁCH/TÀI LIỆU ONLINE (GIÁ ƯU ĐÃI NHẤT)
Thuật ngữ văn bản trong các ngôn ngữ Ấn-Âu đều bắt nguồn từ chữ La-tinh “textus” có nghĩa là “dây bện, vải”. Trong ngôn ngữ học, văn bản đã được định nghĩa theo những cách khác nhau. Trên địa bàn tiếng Việt chẳng hạn, Đinh Trọng Lạc quan niệm: “Văn bản … là một thể thống nhất toàn vẹn được xây dựng theo những quy tắc nhất định”. Hữu Đạt thì cho rằng: “Văn bản là một tập hợp các câu (hay phát ngôn) được kết hợp với nhau theo một phương thức nhất định đảm bảo cho việc truyền đạt thông tin có hiệu quả và chính xác.” Định nghĩa của Trần Ngọc Thêm có phần đơn giản hơn: Văn bản là chỉnh thể thống nhất và trọn vẹn về nội dung và hình thức. Nhưng ông cũng khẳng định thêm: “Văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu–phần từ, trong hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy.”.
Trong tiếng Việt, văn bản được quan niệm là đơn vị cao nhất của ngôn ngữ. Đó là một chỉnh thể gồm một hay nhiều đoạn văn được liên kết chặt chẽ với nhau để thể hiện một nội dung hoàn chỉnh chung.
Hiện nay, chưa có định nghĩa nào về văn bản được tất cả các nhà ngôn ngữ học chấp nhận. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều quan niệm khác nhau vềì văn bản trong các từ điển tiếng Việt, trong các sách giáo khoa phổ thông, trong các giáo trình tiếng Việt thực hành cũng như trong các sách ngôn ngữ học trong, ngoài nước.
Quan niệm về diễn ngôn được giới thiệu ở ta sớm nhất trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Có thể kể đến các công trình: Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm (1985); Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản của Diệp Quang Ban (1998, 2009), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 của Đỗ Hữu Châu (2001), Dụng học Việt ngữ của Nguyễn Thiện Giáp (2000), Phân tích diễn ngôn – một số vấn đề lí luận và phương pháp của Nguyễn Hoà (2003), Từ điển tu từ - phong cách – thi pháp học của Nguyễn Thái Hoà (2005),...
Bên cạnh những công trình biên khảo nói trên, cũng có một số công trình nghiên cứu về diễn ngôn của nước ngoài được dịch sang tiếng Việt, chẳng hạn: Dụng học, một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ của George Yule (Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch, 1997); Dẫn nhập phân tích diễn ngôn của David Nunan (Hồ Mỹ Huyền, Trúc Thanh dịch, 1998); Phân tích diễn ngôn của Gillian Brown, George Yule (Trần Thuần dịch, 2002), Dẫn luận ngữ pháp chức năng của Mak Halliday (Hoàng Văn Vân dịch, 2004)… các công trình này tập trung vào mấy điểm sau: diễn ngôn là gì, đặc điểm và chức năng của diễn ngôn, các vấn đề về ngữ cảnh và ý nghĩa diễn ngôn, cấu trúc thông tin của diễn ngôn, bản chất quy chiếu trong diễn ngôn, các đường hướng phân tích diễn ngôn… Cũng có thể kể đến các bài viết: “Phân tích diễn ngôn phê phán là gì?” (tạp chí Ngôn ngữ, 2 -2005), “Khía cạnh văn hoá của phân tích diễn ngôn” (tạp chí Ngôn ngữ, 12 -2005), “Thực hành phân tích diễn ngôn bài Lá rụng” (tạp chí Ngôn ngữ, 2 - 2009), “Một vài dạng cấu trúc nhân quả khó nhận biết trong diễn ngôn nghệ thuật ngôn từ” (tạp chí Ngôn ngữ số 4 - 2009),…
Chúng tôi thấy có ít nhất năm nhóm quan niệm về diễn ngôn trong ngôn ngữ học. Nhóm thứ nhất sử dụng khái niệm diễn ngôn (discourse) và văn bản (text) đồng nghĩa với nhau, hoặc phân biệt hai khái niệm này bằng cách đính kèm chúng vào một trong hai dạng tồn tại của ngôn ngữ. Nhóm thứ hai cho rằng diễn ngôn thuộc đơn vị của ngữ nghĩa, còn văn bản thuộc đơn vị của ngữ pháp. Nhóm thứ ba quan niệm diễn ngôn chịu sự phán xét của dụng học, còn văn bản trở thành đối tượng của ngôn ngữ học văn bản. Nhóm thứ tư đề nghị nên sử dụng tên gọi diễn ngôn để chỉ quá trình giao tiếp, sự kiện giao tiếp có tính chỉnh thể và có mục đích; còn thuật ngữ văn bản dùng để chỉ sản phẩm của quá trình giao tiếp, sự kiện giao tiếp ấy. Nhóm thứ năm gồm chức năng luậnchủ trương đặt diễn ngôn vào ngữ cảnh văn hoá xã hội, và cấu trúc luận thiên về mô tả cấu trúc độc lập của diễn ngôn.
Quan niệm về diễn ngôn cũng đã được giới thiệu trong khoa học văn học, song còn ở tình trạng tản mạn, hoặc chủ yếu ở dạng thực hành phân tích.
Khái niệm diễn ngôn và văn bản, sự phân biệt giữa diễn ngôn và văn bản đến nay vẫn chưa được thống nhất và còn nhiều tranh cải chính vì thế tôi mạnh dạn đề xuất đề tài : “Phân biệt vă bản và ngôn bản” để có thể hệ thống lại khái niệm về văn bản và ngôn bản (diễn ngôn) và sự khác nhau giữa chúng để giúp người đọc có cái nhìn rõ ràng hơn về ngôn bản và văn bản.
Trong đề tài này tôi tham khảo một số tài liệu sắp xếp chúng một cách có hệ thống và khoa học để chúng ta có cái nhìn logic hơn về văn bản và ngôn bản.
NỘI DUNG:
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tôi đi sâu và nghiên cứu về văn bản và ngôn bản
Phạm vi nghiên cứu đề tài này đó là khái niệm văn bản ngôn bản, những đặc điểm của chúng và đặc biệt là phân biệt ngôn bản và văn bản.
IV. Mục đích nghiên cứu
Hiện nay khái niệm về văn bản và ngôn bản vẫn chưa thực sự được thống nhất và còn rất nhiều tranh cãi. Tôi mạnh dạn làm đề tài này để một phần nào đó hệ thống lại khái niệm về văn bản và ngôn bản đồng thời phân biệt chúng và giúp cho bạn đọc có cái nhìn hệ thống hơn về hai phạm trù ngôn bản và văn bản.
V. Phương pháp nghiên cứu
Ở đề tài này tôi sử dụng phương pháp chính là thống kê, phân loại và so sánh. Ngoài ra tôi còn sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp.
VI. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài gồm có hai chương:
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN BẢN VÀ NGÔN BẢN
1.1. Khái quát chung về văn bản
1.1.1 Khái niệm văn bản và tên gọi
1.1.2 Đặc điểm của văn bản
1.1.3 Cấu tạo của văn bản
1.1.4 Các loại hình văn bản
1.2 Khái quát chung về ngôn bản
1.2.1 Khái niệm ngôn bản và tên gọi
1.2.2 Đặc điểm của ngôn bản
1.2.3 Phân loại ngôn bản
1.2.4 Cấu trúc của ngôn bản
CHƯƠNG II: PHÂN BIỆT NGÔN BẢN VÀ VĂN BẢN
2.1 Những quan niệm về phân biệt ngôn bản và văn bản
2.2 Các tiêu chí phân biệt ngôn bản và văn bản
2.2.1 Về chất liệu
2.2.2 Về hoàn cảnh sử dụng
2.2.3 Hệ thống ngôn ngữ.
2.2.4 Cách phân biệt ngôn bản và văn bản theo quan niệm của A.N. Mrohovski
2.2.5 Mật độ từ vựng
2.2.6 Ẩn dụ ngữ pháp
2.2.7 Hình thức biểu hiện
2.2.8Sản phẩm của văn băn và ngôn bản
III. Mối quan hệ giữa văn bản và ngôn bản
LINK 3 - TÌM KIẾM SÁCH/TÀI LIỆU ONLINE (GIÁ ƯU ĐÃI NHẤT)
LINK 4 - TÌM KIẾM SÁCH/TÀI LIỆU ONLINE (GIÁ ƯU ĐÃI NHẤT)

%20(1).png)

.png)
Không có nhận xét nào: